Như chúng ta cũng đã biết, ngoài những vị xuất gia thì Đức Phật còn có những người đệ tử tại gia. Sau khi Đức Phật không còn nữa, bắt đầu có nhiều luồng tư tưởng được hình thành.
Trong đó có giới bảo thủ có khuynh hướng biến Đạo Phật thành một chủ nghĩa cho người xuất gia. Còn người cư sĩ tại gia chỉ có trách nhiệm cúng dường mà thôi.
Kinh Duy Ma Cật ra đời như một bước rất quan trọng trong cuộc vận động chống lại chủ nghĩa xuất gia này, đó là lúc giới cư sĩ nắm phần chủ động trong phong trào đưa Đạo Phật về với quần chúng và truyền bá tư tưởng Đại Thừa.
Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ được biết đến một vị cư sĩ tài ba là ông Duy Ma Cật. Trí tuệ của ông thật khó diễn bày bằng chữ nghĩa. Đến mức mà tất cả 10 Đại đệ tử của Đức Phật không ai dám ra đối đáp với ông.
Điều đầu tiên Ngọc Anh nghĩ đến khi đọc đến đây đó là câu chuyện hình tướng và tâm tướng. Xuất gia mà chỉ thay đổi vẻ ngoài, nơi ở thì chỉ là xuất gia trên thân và chẳng có giá trị gì cho quần chúng.
Tuy nhiên cũng có những người vẫn sống cuộc sống bình thường nhưng vẫn là người xuất gia, bậc xuất gia trong tâm. Trí tuệ của họ vẫn trọn vẹn không có khác.
Điều này làm Ngọc Anh liên tưởng tới 2 câu rất hay trong cuốn Cư Trần Lạc Đạo của Trúc Lâm Đại Sĩ, Đức Vua Trần Nhân Tông.
"Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm."
Mặc dù là thân thể thì đang ở nơi kinh thành phồn hoa đô thị nhưng tâm thế, hành động đều là của người sống nơi núi rừng. Hay như một câu khá nổi tiếng khác của người Á Đông là "Cao nhân bất lộ tướng".
Nghe thì có vẻ kinh khủng nhưng thực ra khá đơn giản. Có nhiều người khi càng tu học thì càng trở nên xét nét và khắt khe với người khác. Họ ép người khác phải sống theo tiêu chuẩn của họ và ngày càng xa rời khỏi mọi người xung quanh.
Nhưng có người thì vẫn sống giữa cuộc đời nhưng với cái tâm không phán xét và đôi khi tùy thuận theo đời sống. Họ lấy cái chưa được như ý của cuộc đời để làm chất liệu cho sự tu học bên trong.
Một góc nhìn nữa là cuốn sách nếu đọc theo ý hiểu thông thường thì rất dễ làm cho chúng ta cảm giác như đang nhục mạ các Đại Đệ Tử của Đức Phật, những người đã đạt quả vị A La Hán. Tuy nhiên Ngọc Anh cho rằng, đối với kinh điển Đại Thừa thì chúng ta cần nhìn một cái nhìn cởi mở hơn chứ không phải cứ 1+1=2.
Tương tự như câu chuyện, thầy A Nan dạy người thợ rèn cách quán tử thi, còn dạy người trông nghĩa địa quán hơi thở. Vài năm trời mà họ chẳng thành tựu gì cả.
Đến khi hỏi Đức Phật thì Thầy mới giải thích rằng:
- Tại ông dạy sai nên họ tu không có kết quả. Người trông giữ nghĩa địa thì phải dạy quán tử thi vì họ chứng kiến những cảnh đó thì quán mới sâu. Còn người thợ rèn lại phải dạy đếm hơi thở ra vào đều đặn thì họ dễ thành công hơn.
Sau đó thầy A Nan dạy họ lại cách tu, chỉ một thời gian ngắn sau họ báo tin vui là đã tu có kết quả rồi.
Quả thật đây là một điều quá đỗi đơn giản mà người trần mặt thịt như chúng ta cũng nhìn ra.
Chẳng lẽ một bậc thánh tăng lại phạm phải sai lầm cơ bản như vậy ư?
Câu trả lời hợp lý nhất đó là tất cả những điều này chỉ là màn kịch mà các vị biểu diễn cho chúng ta xem mà thôi.
Đã là vở kịch thì cần có diễn viên và kết thúc là bài học cho tất cả khán giả. Khi đặt mình trên tâm thế cởi mở như vậy, chúng ta dễ dàng vượt thoát khỏi câu chữ và nhận được thông điệp cho riêng mình. Còn nếu cứ phải lịch sử chứng minh, mắt thấy tai nghe thì có khi chắc học được gì mà còn rước sân hận vào người.
Ngọc Anh sẽ kết thúc bài ngày hôm nay bằng một câu chuyện mà mình đã kể đi kể lại nhiều lần. Trước khi Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ, có hàng chục tôn giáo đã tồn tại.
Đến khi Đức Phật đi thuyết pháp mới có người hỏi rằng:
- Thưa thầy, ở Ấn Độ bây giờ có quá nhiều tôn giáo, vậy người thường như chúng con biết nương theo tôn giáo nào ạ?
Đức Phật mới trả lời:
- Ông đừng vội tin! Đừng vội tin vì đó là lời của minh sư, đừng vội tin vì đó là những gì mình được dạy từ nhỏ, đừng vội tin dù cho đó có là suy nghĩ của chính mình. Ông hay kiểm chứng trên cuộc sống của mình. Tôn giáo nào khiến cho ông trở nên yêu thương con người, khiến cho cuộc sống của những người xung quanh ông tốt lên. Đó là tôn giáo mà ông nên theo.
Chúc cả nhà an lành khi đọc bài viết này.
Trong đó có giới bảo thủ có khuynh hướng biến Đạo Phật thành một chủ nghĩa cho người xuất gia. Còn người cư sĩ tại gia chỉ có trách nhiệm cúng dường mà thôi.
Kinh Duy Ma Cật ra đời như một bước rất quan trọng trong cuộc vận động chống lại chủ nghĩa xuất gia này, đó là lúc giới cư sĩ nắm phần chủ động trong phong trào đưa Đạo Phật về với quần chúng và truyền bá tư tưởng Đại Thừa.
Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ được biết đến một vị cư sĩ tài ba là ông Duy Ma Cật. Trí tuệ của ông thật khó diễn bày bằng chữ nghĩa. Đến mức mà tất cả 10 Đại đệ tử của Đức Phật không ai dám ra đối đáp với ông.
Điều đầu tiên Ngọc Anh nghĩ đến khi đọc đến đây đó là câu chuyện hình tướng và tâm tướng. Xuất gia mà chỉ thay đổi vẻ ngoài, nơi ở thì chỉ là xuất gia trên thân và chẳng có giá trị gì cho quần chúng.
Tuy nhiên cũng có những người vẫn sống cuộc sống bình thường nhưng vẫn là người xuất gia, bậc xuất gia trong tâm. Trí tuệ của họ vẫn trọn vẹn không có khác.
Điều này làm Ngọc Anh liên tưởng tới 2 câu rất hay trong cuốn Cư Trần Lạc Đạo của Trúc Lâm Đại Sĩ, Đức Vua Trần Nhân Tông.
"Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm."
Mặc dù là thân thể thì đang ở nơi kinh thành phồn hoa đô thị nhưng tâm thế, hành động đều là của người sống nơi núi rừng. Hay như một câu khá nổi tiếng khác của người Á Đông là "Cao nhân bất lộ tướng".
Nghe thì có vẻ kinh khủng nhưng thực ra khá đơn giản. Có nhiều người khi càng tu học thì càng trở nên xét nét và khắt khe với người khác. Họ ép người khác phải sống theo tiêu chuẩn của họ và ngày càng xa rời khỏi mọi người xung quanh.
Nhưng có người thì vẫn sống giữa cuộc đời nhưng với cái tâm không phán xét và đôi khi tùy thuận theo đời sống. Họ lấy cái chưa được như ý của cuộc đời để làm chất liệu cho sự tu học bên trong.
Một góc nhìn nữa là cuốn sách nếu đọc theo ý hiểu thông thường thì rất dễ làm cho chúng ta cảm giác như đang nhục mạ các Đại Đệ Tử của Đức Phật, những người đã đạt quả vị A La Hán. Tuy nhiên Ngọc Anh cho rằng, đối với kinh điển Đại Thừa thì chúng ta cần nhìn một cái nhìn cởi mở hơn chứ không phải cứ 1+1=2.
Tương tự như câu chuyện, thầy A Nan dạy người thợ rèn cách quán tử thi, còn dạy người trông nghĩa địa quán hơi thở. Vài năm trời mà họ chẳng thành tựu gì cả.
Đến khi hỏi Đức Phật thì Thầy mới giải thích rằng:
- Tại ông dạy sai nên họ tu không có kết quả. Người trông giữ nghĩa địa thì phải dạy quán tử thi vì họ chứng kiến những cảnh đó thì quán mới sâu. Còn người thợ rèn lại phải dạy đếm hơi thở ra vào đều đặn thì họ dễ thành công hơn.
Sau đó thầy A Nan dạy họ lại cách tu, chỉ một thời gian ngắn sau họ báo tin vui là đã tu có kết quả rồi.
Quả thật đây là một điều quá đỗi đơn giản mà người trần mặt thịt như chúng ta cũng nhìn ra.
Chẳng lẽ một bậc thánh tăng lại phạm phải sai lầm cơ bản như vậy ư?
Câu trả lời hợp lý nhất đó là tất cả những điều này chỉ là màn kịch mà các vị biểu diễn cho chúng ta xem mà thôi.
Đã là vở kịch thì cần có diễn viên và kết thúc là bài học cho tất cả khán giả. Khi đặt mình trên tâm thế cởi mở như vậy, chúng ta dễ dàng vượt thoát khỏi câu chữ và nhận được thông điệp cho riêng mình. Còn nếu cứ phải lịch sử chứng minh, mắt thấy tai nghe thì có khi chắc học được gì mà còn rước sân hận vào người.
Ngọc Anh sẽ kết thúc bài ngày hôm nay bằng một câu chuyện mà mình đã kể đi kể lại nhiều lần. Trước khi Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ, có hàng chục tôn giáo đã tồn tại.
Đến khi Đức Phật đi thuyết pháp mới có người hỏi rằng:
- Thưa thầy, ở Ấn Độ bây giờ có quá nhiều tôn giáo, vậy người thường như chúng con biết nương theo tôn giáo nào ạ?
Đức Phật mới trả lời:
- Ông đừng vội tin! Đừng vội tin vì đó là lời của minh sư, đừng vội tin vì đó là những gì mình được dạy từ nhỏ, đừng vội tin dù cho đó có là suy nghĩ của chính mình. Ông hay kiểm chứng trên cuộc sống của mình. Tôn giáo nào khiến cho ông trở nên yêu thương con người, khiến cho cuộc sống của những người xung quanh ông tốt lên. Đó là tôn giáo mà ông nên theo.
Chúc cả nhà an lành khi đọc bài viết này.
Nhận xét
Đăng nhận xét