Danh vọng là thứ vô cùng ghê gớm. Dường như nó luôn nhăm nhe xâm chiếm ta bất cứ lúc nào. Sẽ chẳng có gì nếu như ta có thể điều khiển được ham muốn ấy vào những việc chân chính. Nhưng hiển nhiên là không phải ai cũng có khả năng kháng cự lại sức hấp dẫn khủng khiếp của tiền bạc hay danh vọng. Ấy vậy mà trong cuộc sống luôn có những người chẳng mấy coi trọng những thứ kể trên. Cuộc sống đâu thiếu những vị tỷ phú, những người tài giỏi ẩn mình sau bộ quần áo sởn cũ cùng chiếc xe cũ rích. Ai mà biết họ đang nghĩ gì…
Tự cổ chí kim, luôn có những người như vậy. Kể cả là khi đã vị trị cả một vùng trời - Chân mệnh thiên tử. Tôi đang muốn nhắc đến một vị vua nổi tiếng trong lịch sử đất nước Việt Nam, đó là đức vua Trần Nhân Tông. Sau khi nhường ngôi, ngài xuất gia lấy hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Là bậc thiên tử, đỉnh cao của mọi đỉnh cao trong xã hội, tiền tài mỹ nữ, cao lương mỹ vị nhưng ngài vẫn bỏ lại tất cả. Những người đời sau như chúng ta chỉ có cách cố gắng mà nghĩ thật nhiều mà thôi.
Sau khi nhập Đạo, ngài để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng có giá trị tới ngày nay. Và thật là một sự thiếu sót nếu không nhắc đến cuốn “Cư Trần Lạc Đạo”. Tôi cảm thấy may mắn nhiều lắm khi được biết đến tác phẩm này qua ngòi bút của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách mang tên “Trái Tim Của Trúc Lâm Đại Sĩ”.
Tôi luôn có một sự háo hức lớn với những tác phẩm hoài cổ thế này. Ngôn ngữ của người xưa khiến ta bay bổng những thứ cảm xúc thật lạ. Bởi sự thay đổi của ngôn từ ấy đôi khi bao hàm cả cái sự vận hành của những thời đại đã qua. Như chính tôi khi đọc lại những bài viết blog trước kia hay tập vở cấp một của mình, tôi cũng chẳng hiểu nổi ý tứ hồi ấy ra sao, không nhớ được là mình định truyền tải những gì. May sao có sự phân tích của sư ông chứ không tôi chẳng biết làm cách nào để tỏ ngữ nghĩa trong tác phẩm này nữa.
Cuốn Cư Trần Lạc Đạo bắt đầu bằng một câu khiến tôi hơi chút bàng hoàng. Không ngoa khi coi đây như tinh thần trọng yếu của toàn bộ tác phẩm. Có khi chỉ cần mỗi câu này thôi là đủ phân tích hàng dài ngữ nghĩa rồi.
“Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm.”
Nhiều người bạn của tôi thường có thói quen đổ lỗi cho người khác vì sự đau khổ của bản thân. Bằng một lý luận nào đó, họ luôn có cách rũ bỏ mọi trách nhiệm đối với đời sống xung quanh chính mình. Nhưng hoàn cảnh không có khả năng quyết định cuộc sống của chúng ta.
Vạn sự bắt đầu từ tâm, người xuất gia, người tại gia thì cũng chỉ là cái vẻ ngoài, là bộ quần áo chẳng làm nên thầy tu. Ta cần thực tập nhìn sâu vào vấn đề để có những tri thức đúng đắn về vấn đề này, về khởi nguồn của nó, và ta hoàn toàn có thể thay đổi được. Giống như đức vua Trần Nhân Tông, dù còn sống ở nơi thành thị xô bồ, giữa những gian dối lừa lọc nhưng phong thái đã là của người tu hành nơi núi rừng. Nhẹ nhàng từng bước đầy nghiêm trang và vững chãi, chỉ cần vài hơi thở nhẹ nhàng là mọi thứ tĩnh lặng và ngài nên tự tại.
Điều này nói lên một thực trạng rằng chúng ta đang mất sự kết nối trầm trọng trong thời đại phát triển mạnh mẽ của “kết nối”.
Ta dần mất kết nối với gia đình, với không gian và với cả thực tại của chính mình nữa.
Tôi từng gặp một cậu bạn say mê tìm kiếm những lý luận học thuyết tôn giáo. Mỗi lần như vậy là cậu tranh luận say mê lắm. Nhưng đáng tiếc là cậu chỉ ham đắm kiến thức qua câu chữ chứ thiếu đi sự trải nghiệm. Câu chuyện về tinh thần là sự nhìn sâu, là kết quả của việc trải nghiệm, là tìm cái có sẵn trong mình chứ chẳng phải giữa đống kiến thức hỗn độn sách vở. Kết cục là cậu luôn mắc kẹt trong ý nghĩ muốn làm chủ mọi thứ.
Tôi chỉ biết rằng cậu chẳng thể có được an lạc nếu cứ như vậy.
Ngược lại thì nhiều người thì lại coi tịnh độ là một nơi để tìm đến. Hàng ngày nỗ lực gieo mình trong kinh điển mà thiếu đi sự thực tập. Nhưng nếu ta biết được tịnh độ là sự thanh tịnh của tâm thức thì chắc ta chẳng mất công kiếm tìm nữa đâu. Chẳng phải cứ lễ lạy thật nhiều, cho nhiều người xem mà có được an lạc. Di ảnh hay tôn tượng chẳng gì hơn là một lời nhắc nhở với hậu thế về lẽ sống đời thường.
Nghĩa xin nhớ, đạo không quên, hương hoa cúng dường chỉ là để tượng trưng lòng hiếu thảo.
Nói rằng tin mà lòng chưa thật, dù có vàng có ngọc cũng chưa hẳn là dạ thẳng ngay.
Khi có được tuệ giác, ta chẳng sợ sóng gió cuộc đời nữa, chẳng vướng mắc vào những ham muốn đời thường nữa. Còn nếu cứ mải mê tìm kiếm tịnh độ ngoài thân thì hẳn còn nhiều tai hoạ lắm.
Biết nhân nghĩa, biết tin lời cổ nhân thì ai chẳng là Phật Thích Ca, biết yêu thương muôn người thì khác nào Phật A Di Đà.
Mong mọi người đều bước đi như những người tự do.
Nhận xét
Đăng nhận xét